Khu phố nổi trên cọc tre
Có dịp ngồi ở các nhà hàng nổi này mà đón làn gió mát lồng lộng từ đầm phá, ăn các món đặc sản của hệ sinh thái nước lợ lớn nhất Đông Nam Á thì thật tuyệt vời. Từ TP.Huế, mất khoảng 20 phút đi ô tô là có thể đặt chân đến đầm Chuồn. Khi khách đến bến, các chủ thuyền nhôm liền nổ máy luồn lách xuyên qua những “trận đồ” nò sáo giăng mắc để ra nhà hàng.
Hệ thống nhà hàng được làm toàn bằng tre, có cổng chào, bậc tam cấp, hệ thống đường dẫn bằng cầu tre thơ mộng… tạo nên khung cảnh nên thơ giữa vùng mênh mông nước. Mỗi nhà hàng có quy mô hàng trăm mét vuông, sức chứa lên tới hàng trăm người.
Những cọc tre được đóng xuống đáy đầm phá rồi giằng chéo vững chãi để làm khung chịu lực, và trên “đọt tre” (người Huế gọi ngọn cây là đọt), cao từ 5 – 7 m so với mặt nước, là hệ thống nhà hàng nổi với hệ giằng sàn ngồi, khung nhà, kết cấu cột kèo… được liên kết bằng tre.
“Công trình sư” lớp 6
Do đời sống người dân tạm bợ trên đầm phá, cơn bão đã dễ dàng nhấn chìm và làm tan tác hàng trăm ghe thuyền, cuốn trôi tài sản và khiến hàng trăm người chết. Sau cơn bão, chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên lúc bấy giờ đã đưa ra chính sách tái định cư lên bờ đối với cư dân vạn đò thủy diện phá Tam Giang. Gia đình ông Hiệp là một trong số những hộ như thế, và chuyển lên khu tái định cư Phú An bây giờ.
Khi mới lên bờ, cuộc sống khó khăn nên không ai có đủ tiền xây nhà kiên cố. Mỗi gia đình chỉ dựng một nhà chồ bằng tre trên mảnh đất được cấp. Dần dà, với kinh nghiệm dùng tre đan thuyền nan, thuyền thúng, giăng nò sáo, làm mui thuyền… những cư dân thủy diện đã phát triển thành nghề làm nhà chồ trên vùng đầm phá.
Cơ duyên đến với nghề thợ tre của “công trình sư” Hiệp cũng rất tình cờ. Thời điểm trước năm 1980, vùng đầm phá Thừa Thiên-Huế có hàng ngàn cư dân, sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt tôm cá trên đầm phá Tam Giang.
Ban đầu, với ngôi nhà ra ở riêng, ông Hiệp thậm chí còn chưa biết gút thắt mối gấc để buộc cho chặt những kết cấu tre lại với nhau. Được người bác ruột tên là Lê Bình, một cao niên nhiều kinh nghiệm về nghề tre trong làng dạy bảo, cuối cùng ông đã hoàn tất “công trình” mơ ước. Và nghề tre đã gắn liền với ông từ đó.
Đắt hàng làm nhà tre
Khác với trí tưởng tượng về một người chỉ huy công trình chỉ đứng quan sát, chỉ đạo thợ thầy, ông Hiệp cũng áo quần lao động ngồi giữa đám thợ cưa, cắt, đan, bện… Chúng tôi hỏi: “Làm một công trình nhà hàng tới hàng trăm mét vuông, chắc ông cũng kiếm được nhiều tiền lắm?”.
Ông nhoẻn cười: “Làm chi có! Tụi tui chỉ làm công, làm ngày nào tính tiền ngày ấy”. Hóa ra, dù đảm trách tất cả công đoạn từ mẫu mã, thiết kế, thi công, trang trí, hoa văn họa tiết… nhưng ông không nhận khoán công trình mà chỉ làm công, với mức thu nhập cũng bằng với tất cả những người thợ khác, mỗi ngày 250.000 đồng.
“Anh thấy đó, người làng nước với nhau, họ cần thì mình làm thôi, thầu khoán mà chi?”, ông Hiệp lý giải rồi khoe thêm: Năm vừa rồi, nhóm thợ 9 người của ông làm xong ngôi chùa tre cho chùa Nga Hoàng (thôn Hợp Châu, Tam Đảo, Vĩnh Phúc).