Trong kinh Phật dạy về quả báo của những người giàu sang: Nhờ biết bố thí, nhưng không chịu tu học hạnh giác ngộ giải thoát, nên không có trí huệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sẽ có thể tái sinh làm voi, ngựa quý… Giàu sang mà biết buông xả để học đạo giải thoát quả là một điều rất khó.

Giàu như vua Tần Bà Sa La, trưởng giả Cấp Cô Độc ngày xưa khi Phật còn tại thế, họ vừa phát tâm bố thí cúng dường và vừa phát tâm học đạo giải thoát. Họ có cả trí tuệ và phước báo. Có phước báo nên giúp được nhiều người. Có trí tuệ nên không tham đắm dính mắc vào bất cứ một thứ tài sản sở hữu nào. Do đó tâm an nhiên tự tại mà không bị phiền não tham, sân, si chi phối.
Trưởng giả tên Tu Đạt sống ở thời Đức Phật còn tại thế. Ông là người giàu bậc nhất nước Kiều Tát La do vua Ba Tư Nặc trị vì. Một hôm ông sang nước Ma Kiệt Đà của vua Tần Bà Sa La mua bán. Khi hoàn tất công việc, ông trở về nhà người anh rể của mình để nghỉ ngơi.
Thường lệ, khi ông về tới, mọi người trong nhà đều ra trước ngõ đón tiếp ân cần, niềm nở. Nhưng hôm nay ông thấy không ai quan tâm để ý đến ông cả, thật lạ lùng. Ông lấy làm ngạc nhiên mới hỏi người anh rể, mới biết cả nhà đang bận rộn việc chuẩn bị đồ ăn, thức uống để cúng dường 1250 vị Tỳ kheo trong tăng đoàn của đức Phật. Lần đầu tiên nghe đến đức Phật, Tu Đạt thắc mắc với người anh rể: “Phật là gì mà mọi người phải cung kính, tôn trọng?”

Người anh rể bảo rằng: “Đức Phật trước đây là Thái tử Tất Đạt Đa. Ngài là con vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da, là người được kế thừa ngôi vua. Nhưng Ngài đã từ bỏ ngôi vị, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, thần dân thiên hạ để xuất gia tu hành. Nay Ngài đã thành Phật”.
Tu Đạt nghe qua, bỗng cảm thấy trong lòng an ổn lạ thường nên muốn gặp đức Phật liền tức khắc. Lúc này trời đang tối. ông đành chờ lại sáng mai. Vì khao khát và mong muốn được gặp đức Phật nên suốt cả đêm, ông không sao ngủ được.
Tờ mờ sáng hôm sau, ông đã có mặt tại Tịnh xá Trúc Lâm, nơi đức Phật đang tịnh dưỡng. Vừa mới tới, ông nghe một giọng nói trầm hùng: “Này Tu Đà Cấp Cô Độc, ta là người mà ông cần gặp đây”. Tu Đạt rất đỗi ngạc nhiên, tại sao cái tên Tu Đà của ta chỉ có người trong gia tộc mới biết và không ai được gọi.Thế mà ở đây lại có người biết và gọi mình như vậy? Tu Đạt nghĩ rằng, hay là ở đây có người bậc trên của gia tộc mình? Trong lúc còn đang ngớ ngẩn, ông thấy một người tướng mạo trang nghiêm, điềm đạm đi tới.
Bất giác Tu Đạt liền quỳ xuống đảnh lễ đức Phật, trong lòng cảm thấy thoải mái và an lạc vô cùng. Và ngay lúc đó, ông được đức Phật khai thị pháp môn căn bản cho người tại gia.

Nghe xong bài pháp, Tu Đà Cấp Cô Độc chứng quả Tu Đà Hoàn, nghĩa là được vào dòng Thánh. Ông không còn bị đọa lạc trong ba đường dữ: địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Sau đó ông phát nguyện quy y Tam bảo, gìn giữ năm điều đạo đức. Ông lại phát tâm cúng dường hộ trì Tam bảo, suốt đời giúp đỡ người bất hạnh nghèo khó. Nhờ tín tâm thuần thục, ông xin Phật cho xây dựng một tịnh xá lớn để chư tăng có chỗ giáo hóa và tu hành. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của ông.
Cấp Cô Độc có nghĩa là cung cấp sự cần thiết cho người cô độc, côi cút, không nhà cửa, không người nuôi dưỡng, nghèo khổ. Trong đời, ông vốn cũng đã có lòng nhân từ, thường giúp đỡ mọi người không phân biệt thân, sơ. Đến khi gặp Phật, ông càng mở rộng tấm lòng bao la rộng lớn hơn.
Từ đó, ông trở về nước để tìm mua một khu đất rộng rãi, địa điểm thuận lợi, nhằm xây dựng một tịnh xá lớn cho chư tăng tu học, giáo hoá và hành trì. Ông tìm mãi mà không thấy nơi nào có miếng đất vừa ý, ngoài khu vườn của Thái tử Kỳ Đà – con vua Ba Tư Nặc. Thái tử Kỳ Đà giàu có, đâu cần bán đất để làm gì? Nhưng vì quá ưa thích, ông bạo gan đến hỏi mua. Thái tử Kỳ Đà bảo rằng:
“Tôi sẵn sàng bán khu vườn cho ông với một điều kiện duy nhất, ông phải trải vàng lót đầy đất”.
Nghe Thái tử nói thế Cấp Cô Độc mừng quá nên đồng ý liền. Ông cho người nhà chở vàng đến lót gần kín khu vườn, chỉ còn một khoảnh nữa là xong. Cấp Cô Độc đang suy nghĩ nên lấy số vàng trong kho nào để lót cho đủ thì Thái tử Kỳ Đà đến hỏi:
“Bộ ông tiếc của hay sao mà đứng ngẩn người ra như thế?”

Cấp Cô Độc trả lời:
“Thưa thái tử, không phải thế đâu. Tôi đang tính xem phải xây dựng tịnh xá như thế nào để chứa đủ chư tăng và phật tử các nơi về đây nghe pháp và tu tập”.
Nghe vậy, Thái tử Kỳ Đà cảm phục tấm lòng cao cả của ông đối với đức Phật và tăng đoàn. Thái tử tuyên bố:
“Kể từ giờ phút này, ông khỏi cần lót vàng nữa đất khu vườn này thuộc về ông. Còn rừng cây trong vườn tôi xin hoan hỷ cúng dường cho đức Phật”.
Ngày nay, đọc các bản kinh, chúng ta thường thấy: “Tôi nghe như vầy, một thời đức Phật ở rừng cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc…” Đây chính là tịnh xá trong khu vườn do Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà cùng dâng cúng. Trong 49 năm thuyết pháp độ sinh, đức Phật đã ở tại tịnh xá này suốt 25 mùa an cư kiết hạ.
Trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi gặp đức Phật, luôn hết lòng tôn kính cúng dường Tam bảo. Ông lại giúp đỡ người cô độc bần cùng với lòng thành kính của mình. Suốt mấy chục năm thực hành bố thí cúng dường, cuối cùng tài sản nhà ông cạn kiệt, do bị lũ lụt cuốn trôi. Gia tài sự nghiệp đã tan tành theo mây khói. Khi ấy cả nhà ông phải dùng cháo thay cơm mỗi bữa. Thế nnhưng ông vẫn một lòng tín tâm, chia bớt phần ăn của mình để cúng dường chư tăng.
Nhờ phước đức bố thí, cúng dường quá lớn lao cùng với lòng thành kính của ông trong quá khứ và hiện tại, nên chẳng bao lâu sau, gia đình ông làm ăn được khấm khá trở lại. Và ông vẫn tiếp tục thực hành bố thí, cúng dường như trước đây mà không biệt thân sơ.

Đạo lý nhân quả nhà Phật giúp ta sáng ngời tình nhân loại trong hạt giống từ bi của hạnh bố thí. Hành động bố thí quan trọng ở tâm chân thành và lòng tôn kính. Cấp Cô Độc đã chứng quả “bất thoái chuyển” ngay trong hạnh này.
Tu Đạt hành theo Phật đạo, phát tâm cúng dường Tam bảo không biết mệt mỏi, nhàm chán. Ông còn giúp đỡ những người cô độc nghèo khó không nơi nương tựa. Vì vậy, ông được quần chúng nhân dân tặng cho danh hiệu là Cấp Cô Độc. Trước khi mạng chung ngài được Tôn giả Xá Lợi Phật và Tôn giả A Nan đến khai thị. Sau đó ngài an nhiên tự tại ra đi mà được sinh về cõi trời.
Ngày nay, vật chất rất dễ chói buộc con người vào tham ái và lo sợ mất mát. Càng lo sợ, càng dễ mất mát. Người giàu sang dễ cho vật chất là mục đích tối hậu của cuộc sống. Họ bị cuốn theo tiền tài, họ đam mê danh vọng và sắc đẹp… mà ít nghĩ đến việc tu học. Họ ấy có thể tín Tam Bảo đấy, nhưng để nương nhờ và xin cầu nhiều hơn cả. Bởi thế, họ cứ chạy theo tham cầu mà quên luật nhân quả. Họ khó học đạo.
Người giàu nên biết cúng dường bởi: Cúng dường Phật như gửi tiền vào ngân hàng. Tuy không thấy có tiền nhưng khi cần xài liền rút ra
Phật dạy, người biết gieo trồng phước đức thì trong hiện tại và tương lai được đầy đủ, giàu sang. Như ta có tiền gửi ngân hàng rút dần ra xài. Người không biết gieo trồng phước đức thì như người có đồng nào xài đồng nấy. Họ luôn phải chịu nghèo khó, vất vả cả đời mà chẳng có của dư.

Người giàu quá hoặc quá nghèo mà làm được việc ân nghĩa đều là điều hy hữu, hiếm có xưa nay. Tuy nhiên không phải là không có. Trên thực tế có những tấm lòng vàng, những nhà hảo tâm, tỷ phú… làm từ thiện. Họ xây dựng mở mang cầu đường. Nhiều chùa to Phật lớn đều là do những người giàu có nhất phát tâm ủng hộ. Song, quan trọng hơn hết, ngoài việc bố thí cúng dường, họ còn biết buông xả những tâm tư chấp trước dính mắc mê muội. Nhờ vậy, cuộc sống của họ lúc nào cũng bình yên hạnh phúc.
Chúng ta nên biết trân trọng và tôn kính những người giàu có mà biết bố thí, cúng dường, khiêm tốn thấp mình học đạo.
Xem thêm:
Đức Chúa Ông là ai và những đóng góp to lớn của ngài trong đạo Phật
Năm công đức lễ Phật và lưu ý khi lễ để có phước báo cho người tu bạn có biết?